Panduranga Lịch sử Chăm Pa

Bài chi tiết: Panduranga
Lãnh thổ Panduranga-Chăm Pa từ sau 1471

Phần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa lịch sử mà sách sử người Việt gọi là Chiêm Thành chỉ từ Phú Yên ngày nay trở về Nam (Kauthara và Panduranga) và từ năm 1653 Chăm Pa chỉ còn nửa đất phía nam của địa khu Panduranga (tức Phan Rang, Phan RíPhan Thiết ngày nay). Tuy nhiên, dưới sự bảo hộ của Đại Việt, vương quốc này vẫn giữ được độc lập dưới sự cai trị của các chúa Chăm.

Mối quan hệ với bán đảo Mã Lai và đạo Islam

Từ năm 1414, chính quyền các tiểu quốc ở khu vực bán đảo Mã Lai như Kelantan (được mệnh danh là serambi Mekah, cổng tới Mecca), Malacca đã bắt đầu lấy đạo Islam làm quốc giáo. Người Chăm trên lãnh thổ Chăm Pa do đó cũng có nhiều nhóm chuyển sang đạo Islam, gọi là Chăm Baruw (Chăm mới), trái với nhóm chưa cải đạo là Chăm Jahed (Chăm cũ).[65]

Mối quan hệ về dân tộc, ngôn ngữ và tôn giáo giữa người Chămngười Mã Laibán đảo Mã Lai đã tạo nên một cầu nối, liên kết hai khu vực. Nhiều thành phố ở Kelantan mang những cái tên liên quan tới Chăm Pa (Chepa) như Pengkalan Chepa, Kampung Chepa. Văn hóa và ẩm thực Kelentan cũng lưu giữ nhiều dấu ấn Chăm Pa. Biên niên sử Hikayat Kelantan cũng cho rằng, vị vua Long Yunus (Raja of Kelantan), người sáng lập vương quốc Hồi giáo Kelantan, có tổ tiên đến từ Kebayat Negara hoặc Kembayat Negara, nơi được cho là Chăm Pa. Nữ vương Che Siti Wan Kembang trong huyền thoại Kelantan được cho là mang ba dòng máu Champa-Kelantan-Pattani. Nhiều vị Raja Kelantan cũng có họ hàng với vương tộc Chăm Pa. Biên niên sử Babad Kelantan còn cho biết, giữa thế kỉ 17, một vị hoàng tử Chăm Pa tên Nik Mustafa đã đến Kelantan học tập nhiều năm, khi trở về nước đã xưng vương là Sultan Abdul Hamid. Truyện cổ Chăm Pa Nai Mai Mang Makah kể việc một công chúa từ Makah (Kelantan) cố gắng cải đạo chúa Chăm sang Islam.[65][67]

Năm 1594 chúa Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn công quân Bồ Đào NhaMalacca.[65][68]

Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm mà sử Việt gọi là Văn Phong (chữ Hán: 文封) đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên.[69][70] Kỷ tỵ, năm thứ 16 (1629), Văn Phong ở Phú Yên dùng quân Chiêm Thành để làm phản. Phó tướng Nguyễn Phước Vinh[71] (Nguyễn Hữu Vinh, chữ Hán: 阮有榮) đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn Biên.[72]

Từ năm 1622-1627, Chăm Pa được cai trị bởi một vị vua tên Po Klaong Mah Nai. Trước đó, vị vua theo đạo Hindu là Po Ehklang bị quan Maha Taha (महा तह, tức Po Klaong Mah Nai) giết và cướp ngôi. Po Klaong Mah Nai là người theo đạo Islam. Lúc này tại Chăm Pa, xảy ra chia rẽ và xung đột giữa các nhóm người Chăm theo đạo Hindu và Islam.[73][74][75]

Trong các năm 1627 đến 1651 là giai đoạn chúa Chăm là Po Rome (con rể Po Klaong Mah Nai) xưng vương và lấy con gái của chúa Nguyễn Phúc NguyênNgọc Hoa (có sách gọi là Ngọc Khoa, Nguyễn Phúc Ngọc Khoa (阮福玉誇). Po Rome là người gốc Chu Ru, từng sống nhiều năm ở Kelantan và theo đạo Islam. Đây cũng là giai đoạn mà quan hệ Việt – Chăm diễn ra tốt đẹp[69].

Năm 1653, chúa Chiêm là Bà Tấm (Po Nraup, còn gọi là Bà Thấm, chữ Hán: 婆抋, Bà Bật, Bà Thâm, là anh em trai của Po Rome)[76] xâm lấn Phú Yên. Chúa Nguyễn Phúc Tần cử cai cơ Hùng Lộc và tham mưu Minh Vũ đem quân vượt qua dãy núi Thạch Bi chiếm đất Chăm đến sát bờ trái sông Phan Rang ngày nay lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân mang thư xin hàng, lấy sông Phan Rang làm giới hạn.[72] Đây cũng là thời điểm Chăm Pa nộp cống xưng thần với các chúa Nguyễn[69].

Lúc bấy giời tại Campuchia, một vị vua tên Nặc Ông Chân đổi sang đạo Islam và xưng là Sultan Ibrahim (1642-1659). Nặc Ông Chân tin dùng và ưu ái người Chăm Mã Lai, gây bất bình với người Khmer trong nước. Năm 1659, Nặc Ông Chân bị chúa Nguyễn đánh bại, một lượng lớn người Chăm và Mã Lai ở Chân Lạp bỏ chạy sang Ayutthaya tị nạn, tạo thành một cộng đồng người gốc Chăm Pa ở Xiêm.

Tại Chăm Pa, chúa Chăm Bà Tranh (Po Saut, Wan Dam, chữ Hán: 婆爭, cai trị khoảng 1660-1692, con trai của Po Rome) cũng theo đạo Islam và xưng là Paduka Seri Sultan (Điện hạ Sultan).[65][77][78] Đây là giai đoạn mà đạo Islam quảng bá mạnh tại khu vực nhờ vào các lực lượng người gốc Mã Lai.[79]

Năm 1682, các giáo sĩ người PhápAyudhya báo cáo về việc chúa Chăm Pa triều cống cho vua Xiêm. Có khả năng Bà Tranh muốn nhờ Xiêm giúp đỡ để giảm sức ép từ chúa Nguyễn.[80] Trong khi ghé tại hòn đảo Pulo Ubi (tức hòn Khoai)[81][82][83] trong vịnh Thái Lan, ngày 13 tháng 5 năm 1687, nhà du hành người Anh William Dampier đã bắt gặp một tàu buôn từ Chăm Pa đang trên đường đi Malacca. William cho biết tàu buôn này có khoảng 40 người, trang bị vũ khí và mang theo hàng hóa là gạo, đồ sơn mài. Chăm Pa tham gia buôn bán với người Hà Lan ở Malacca.[65][84]

Chúa Nguyễn và chúa Chăm Kế Bà Tử

Năm 1692, Bà Tranh đã tấn công vào phủ Diên Ninh và dinh Bình Khang tức vùng Diên Khánh ngày nay. Cuộc tấn công này đã thất bại và quân Chăm bị tướng Nguyễn Hữu Cảnh đánh bại vào tháng 3 năm 1693. Chúa Nguyễn đổi tên Chiêm Thành Quốc thành Thuận Thành Trấn, sau đó tháng 8 năm 1693, đổi Thuận Thành Trấn thành Bình Thuận Phủ. Bà Tranh bị giải về Thuận Hóa, người anh em là Tả trà viên Kế Bà Tử (繼婆子, Po Saktiraydaputih) làm Khám lý, ba người con Bà Ân làm Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người Kinh và sai về để vỗ yên lòng dân.[72]

Cuộc chiến tranh năm 1692-1693 đã khiến một hoàng thân tên Po Chongchan (Po Choncăin) dẫn theo gia quyến và hơn 5.000 người Chăm bỏ sang Campuchia tị nạn. Những nhóm người này được Chính vương Chey Chettha IV cho định cư dọc xung quanh kinh đô Oudong, bên bờ sông Mê Kông. Người Chăm Mã Lai tiếp tục được triều đình Chân Lạp sử dụng làm quân binh hầu cận.[85][86] Cộng đồng Chăm trong đợt di cư này có lẽ là tổ tiên của nhóm Chăm Jahed (Chăm cũ) hoặc Imam San ở Campuchia ngày nay.[87]

Tháng 12 năm 1693, người Thanh là A Ban (阿班)[88] cùng với Hữu trà viên là Ốc nha Đạt (Ốc nha Thát, 屋牙撻) ở Thuận Thành nổi loạn, đánh chiếm các đất Đại Đồng, Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang.[72] Lúc đó Nguyễn Hữu Cảnh đang đi Tây Chính ở Chân Lạp, và quân Nguyễn ở lại đã bị quân Chăm tiêu diệt hoàn toàn.[89]

Đầu năm 1694, Bà Tranh chết, quân A Ban lại vây Phan Rang. Tháng 2, A Ban tiến giữ lũy Ô Liêm. Lưu thủ Nhuận và các cai cơ Tống Tuân và Nguyễn Thành chia quân giáp đánh. A Ban chạy về Phố Châm. Sau đó Cai cơ Nguyễn Hữu Kính (Cảnh) mới dẹp yên.[72]

Khi Nguyễn Hữu Cảnh trở lại, Kế Bà Tử đã ký hòa ước với chúa Nguyễn Phúc Chu. Tháng 8, chúa cho phủ Bình Thuận trở lại làm trấn Thuận Thành. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã đồng ý khôi phục vương quốc Chăm Pa với hình thức là một khu tự trị với tên là Thuận Thành Trấn, và chúa Chăm Kế Bà Tử được gọi là Thuận Thành trấn vương (順城鎮王), đóng đô ở Băl Canar, giữ chức Tả đô đốc, phiên vương trấn Thuận Thành của chúa Nguyễn.[65] Theo bộ văn bản hoàng gia Chăm (bản chữ Hán), mối quan hệ phiên thuộc giữa vùng đất cai quản bởi các chúa Chăm và chính quyền trung ương của chúa Nguyễn diễn ra tốt đẹp.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch sử Chăm Pa http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/vns... http://ttntt.free.fr/archive/DoHaiMinh.Islam.html http://kyotoreview.cseas.kyoto-u.ac.jp/issue/issue... http://journalarticle.ukm.my/8251/1/Mohamad_Zain_M... http://redsvn.net/cuoc-thanh-chien-hoi-giao-chong-... http://www.dangvidan.org/index.php?option=com_cont... http://www.eias.org/wp-content/uploads/2016/03/EU_... http://www.gutenberg.org/files/44075/44075-h/44075... http://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/1... http://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/1...